chuyen phong the cua vua minh mang

Vua Minh Mạng (1791 - 1841) ở ngôi từ 1820 đến 1841. Mặc dù có một số chính sách sai lầm và hạn chế nhưng ông vẫn được đánh giá là ông vua có nhiều thành tích nhất của nhà Nguyễn; là người cứng rắn nhất trong việc chống tham nhũng. Trong đời sống riêng tư, vua Minh Mạng nổi tiếng là người có sức khoẻ cường tráng của đàn ông. Tương truyền, vua một đêm có thể "chiều" đến 5-6 cung tần Cho đến nay, không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết vua có nhiều vợ và rất đông các phi tần; có tới 142 Giống cha, nhiều người con của vua Minh Mạng cũng sinh hạ hàng chục con. Trong đó, Thiệu Trị kế ngôi có 64 người con, đặc biệt nhất là Thọ Xuân Vương Miên Định có đến 144 người con, hơn cả cha mình. Một người con khác của Minh Mạng là Miên Trinh có 114 con. Tuy nhiên, cháu Trước đó, Hoàng đế sẽ lên nằm trên giường, nhưng không đắp kín chăn mà để lộ ra một phần bắp chân của mình. Phi tử khi được đưa vào hầu hạ sẽ bước lên phía cuối giường, sau đó từ từ chui vào trong chăn từ phía chân mà Hoàng thượng để hở. Sau khi hầu hạ Vua Minh Mạng là ai? Vua Minh Mạng (sinh năm Tân Hợi 1791, mất năm Tân Sửu 1841) có cả thảy 43 người vợ. Chuyện hậu cung của vị vua này cũng có nhiều nét khác biệt mà đến giờ vẫn còn nhiều bí mật và dị bản khác nhau. Có những đêm vua Minh Mạng có thể ân sủng đến 4 ái modifikasi vega r new warna biru hitam. Vua Minh Mạng lên ngôi đúng ngày mùng Một Tết. Ngay sau khi lên ngôi vua ban chiếu miễn thuế cho dân, thưởng cho tôn thất và các quan. Mùng 2 Tết, làm lễ cúng vua cha, mùng 3, yết các miếu thờ tổ tiên. Lăng vua Minh Mạng. Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm 1791-1841, là vị vua thứ hai của triều Nguyễn. Ông là vị vua làm việc rất chăm chỉ, Đại Nam dưới thời trị vì của ông là quốc gia hùng mạnh bậc nhất trong khu vực, khiến ngoại bang nể sợ. Vua Minh Mạng lên ngôi ngày mùng Một Tết năm Canh Thìn 1820. Sử cũ ghi lại tương đối đầy đủ những hoạt động của nhà vua trong ngày Tết. Ngay sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng ban chiếu gồm 16 điều đặc ân như miễn thuế cho nhân dân, ban thưởng cho tôn thất và các quan. Ngày mùng Hai Tết, làm lễ cúng vua cha, ngày mùng 3, vua yết các miếu thờ tổ tiên rồi sau đó, ban tặng bạc và thưởng cơm rượu cho các bậc kỳ lão trong kinh kỳ. Trong năm ở ngôi đầu tiên, vua Minh Mạng vẫn đang trong thời gian để tang vua cha là vua Gia Long. Sau lễ giỗ lần đầu lễ Tiểu tường vua Gia Long vào ngày 19 tháng Chạp, vua Minh Mạng bàn với quần thần về nghi lễ Nguyên đán. Lễ Nguyên đán Quần thần tâu rằng sau lễ Tiểu tường, nhà vua có thể chủ trì lễ tế được rồi, và đề xuất đúng ngày Chính đán mùng Một Tết, nhà vua nên thân hành yết Thái miếu nơi thờ phụng các vị chúa Nguyễn. Các quan tham gia làm bồi tế, sau đó nhà vua về ngự điện ở Cần Chính, đổi mặc áo thường, các quan vẫn mặc triều phục, đợi ở sân điện Thái Hoà để vào triều kiến. Còn ngày thường thì nhà vua vẫn mặc áo trắng ngự ở Tiện điện mà nghe chính sự để trọn số tháng cư tang. Nhà vua nghe theo lời bàn đó. Do đó, vào ngày mùng Một Tết năm sau, tức năm Minh Mạng thứ 2 1821, nhà vua đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, đeo đai ngọc, tiến hành tế Thái miếu, sau đó ban lệnh miễn lễ triều hạ cho các quan. Sau đó vua đổi áo thường, ngự ở điện Cần Chính, các quan vào chiêm bái. Nhà vua ban cho các quan bạc thay cho việc đãi yến theo thứ bậc khác nhau. Ngày mùng 2, nhà vua dâng lễ lớn ở điện Hoàng Nhân, nơi thờ vua Gia Long. Đến ngày mùng 7 thì chính thức khai ấn. Ngày mùng 10, nhà vua cho tiến hành duyệt binh. Nhà vua mặc nhung phục ngự ở điện Càn Nguyên xem duyệt. Lệ duyệt binh bắt đầu từ đấy. Cũng từ năm này, vua Minh Mạng cho thủy quân diễn tập chèo thuyền và lấy làm lệ thường niên. Năm Minh Mạng thứ 4, được mùa, khi khai bút đầu năm, nhà vua đã tự viết 6 chữ lớn “Phúc Thọ Thượng Thọ Hữu Niên” vào 4 bức giấy rồng, đưa bảo bầy tôi rằng “Năm mới trẫm khai bút viết sáu chữ ấy, hai chữ “Thượng Thọ” là dâng cung Từ Thọ nơi ở của Thái hậu, để cầu phúc lớn, hai chữ “Hữu Niên” để cầu cho dân ta năm nay được mùa, hai chữ “Phúc Thọ” để ở bên hữu chỗ ngồi để theo ý nghĩa nhà vua thu phúc mà ban cho dân”. Vua Minh Mạng cũng thường xuyên làm thơ khai bút đầu xuân. Thường nhà vua ngự ở điện Văn Minh, triệu hoàng thân và văn võ đại thần cho ngồi, ban nước chè uống, bình thơ vua làm. Trong số rất nhiều bài thơ xuân của nhà vua, bài “Ngày Tết Nguyên đán khai bút”, có câu “Canh diệt tứ thời nhưng phục thuỷ, Ưu cần nhất niệm hựu tòng đầu…”. Bốn mùa thay đổi quay vòng mới, Một dạ chăm lo lại bắt đầu. Giảm thuế, ban thưởng trong chiếu xuân Trong thời gian trị vì, nhiều lần trong chiếu đầu xuân, vua Minh Mạng giảm thuế cho nhân dân, như năm đầu lên ngôi, năm thứ 5, thứ 6, thứ 10… Mức thuế được giảm từ 1 phần 10 đến 4 phần 10, tùy vào tình hình mùa màng của từng địa phương. Không chỉ ban thưởng cho các quan trong kinh, ngày Tết, vua Minh Mạng cũng nhớ đến các quan ở xa. Năm Minh Mạng thứ 6, nhà vua bảo thị thần rằng “Sự mừng xuân ban khắp cả bầy tôi mà thành thần Gia Định vì giữ ngoài không được dự yến ở triều đình, trẫm rất lấy làm áy náy”. Vua bèn sai thị vệ đem phẩm vật ban cho Tổng trấn Lê Văn Duyệt, các văn võ thuộc thành như Trương Tiến Bửu, Nguyễn Văn Thuỵ, Nguyễn Xuân Thục, Trần Nhật Vĩnh đều được thưởng chỉ thưởng cho các quan, vua Minh Mạng cũng ban cho các giám sinh Quốc tử giám mỗi người 10 quan tiền. Quan bộ Hộ là Nguyễn Hữu Thận nói thưởng thế là quá hậu. Vua trả lời rằng “Cho con hát đàn bà hầu hạ thì không nên hậu, chứ học trò của báu của nhà nước, ngày nay nuôi để ngày khác dùng, há chẳng nên hậu hay sao ?”. Ngày đầu năm, nhà vua cũng ban thường cho những người dân sống thọ, như ân chiếu ban hành năm Minh Mạng thứ 11, quy định các kỳ lão trên 100 tuổi ban thưởng 3 lạng bạc, trên 90 tuổi thưởng 2 lạng bạc, trên 80 tuổi thưởng 1 lạng bạc. Đầu xuân, nhà vua thường xuất hành du xuân ra ngoài thành, như năm thứ 6, ngự ra Đông Giao, khi đi về lệnh giảm thuế thân 1 phần 10 cho dân các xã đi qua, lại thưởng thêm cho dân xã 500 quan tiền. Năm sau, vua xuất hành đi thăm về phía đông Kinh thành, cũng thưởng cho dân ở dọc đường quan tiền. Năm Minh Mạng thứ 8 1827, nhân lễ Lục tuần đại khánh của Hoàng thái hậu, đầu năm nhà vua ban ân điển gồm 13 điều, như miễn hết tiền thuế thân, tiền đầu quan, tiền điệu, tiền cửa đình cho cả nước, giảm tiền thóc gạo thuế lệ về điền thổ tới 5 phần 10… Từ năm Minh Mạng thứ 10, triều đình bắt đầu làm lễ Nghênh xuân và Tiến xuân, tức các lễ đón xuân và tiến thần Câu mang, với con trâu đất, để cầu nguyện cho thời tiết được lành, mùa màng được thuận. Lễ tế cờ Năm này, vua Minh Mạng cũng cho đổi lễ Đầu xuân ra quân làm lễ tế cờ. Theo đó, ngày 11 tháng Giêng, nhà vua đặt triều nghi ở điện Cần Chánh để quan Khâm mạng bái mạng. Đến kỳ tế cờ, trước một ngày Hữu ty làm đàn đặt án ở ngoài quách phía nam Kinh thành, án giữa đặt một bài vị “Kỳ đạo chi thân”, án bên trái đặt ba bài vị “Kỳ đầu đại tướng”, “Lục đạo đại tướng”, “Ngũ phương kỳ thần”, án bên phải đặt 4 bài vị “Chủ tể chiến thuyền chính thân”, “Kim cổ dác nạo pháo chi thần”, “Cung thỉ phi thương phi thạch chi thần”, “Trận tiền trận hậu thần kỳ”, đều hướng về phía nam. Trước án thờ đều bày lễ tam sinh cúng các loại gia súc trâu, dê, lợn, hai bên có 300 biền binh mang súng, 10 con voi lễ, 3 cố đại bác. Ngày tế cờ, quan Khâm mạng làm lễ, sau đó bắn 3 phát đại bác, rồi trở về phục mạng. Theo lệ ban yến và thưởng cho các hoàng tử thân công và các quan văn võ, thì các quan từ cấp Chánh ngũ phẩm trở lên mới được dự tiệc. Năm 1828, do là dịp Tứ tuần đại khánh nhà vua tròn 40 tuổi, nên vua cho đặc cách cho các quan văn từ Chánh lục phẩm trở lên, võ giai thực thụ Suất đội đều được dự. Đến năm Minh Mạng thứ 17 1836, lại ban quy định là vào lễ tết Nguyên đán trong cung đình từ hoàng tử tước công và quan viên văn võ đều cho ăn yến tiệc, thưởng đồ vật có thứ bậc. Ngoài việc giữ nghiêm lễ tế các vị tổ tiên, vua Minh Mạng cũng yêu cầu tế lễ chu đáo các đền thờ các vua thời trước, như trong dụ ban hành cuối năm Minh Mạng thứ 7 1826 “Những thành trấn khác có đền miếu thờ tự đế vương, văn thánh các đời mỗi nơi lập một đàn tế tự và phối tế với các miếu thờ thần trong điển tại trị sở”. Theo LÊ TIÊN LONG / TRI THỨC TRỰC TUYẾN Tags Vua chúa Việt Nam, Nhà Nguyễn, Tết Nguyên đán, Minh Mạng Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp. Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose. A. ĐẶT VẤN ĐỀ Muốn xây một quốc gia cường thịnh thì người đứng đầu quốc gia phải là người có tài, thông minh biết kết hợp nền văn minh thế giới, học hỏi các nước bè bạn, kế thừa những thành tựu mà tổ tiên đã để lại áp dụng phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nước. Trong lịch sử phong kiến dân tộc ta, có hai cuộc cải cách lớn được lưu danh trong sử sách, đó là cuộc cải cách thành công thống nhất của vua Lê Thánh Tông 1460 – 1497 và cuộc cải cách cũng đầy sáng tạo dưới triều vua Minh Mạng 1820 – 1840. Trong phạm vi bài viết này, nhóm chúng tôi xin đi vào tìm hiểu “những cải cách về Lục bộ của vua Minh Mạng, với tinh thần tìm hiểu một cách rõ nét hơn tiền thân của các Bộ ngành trong bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay và tìm hiểu thêm về vị vua có sự quyết đoán, sáng tạo nổi tiếng của nhất của Triều đại nhà Nguyễn. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Lục bộ hay sáu bộ là thuật ngữ chỉ sáu cơ quan chức năng cao cấp trong chế độ quân chủ gồm có Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Công, Bộ Lễ. Đứng đầu các bộ là Thượng Thư, giúp việc cho Thượng Thư có những chức quan khác nhau tuỳ theo từng triều đại và dưới cấp bộ là chức ty trực thuộc. Về cơ bản, các Bộ đều là các cơ quan thực thi quyền hành pháp do nhà vua giao trong từng lĩnh vực cụ thể, đồng thời có chức năng tư vấn cho nhà vua trong lĩnh vực mà bộ quản lý. I. Cải cách trong thành phần quan lại trong Lục bộ Năm 1804 khi mới thiết lập Lục bộ, vua Gia Long vẫn theo chế độ phẩm trật danh chức các quan chế thời Lê, do quan đại thần đứng đầu các bộ. Gồm các chức quan sau Thượng Thư, Tham Tri, Thiên Sự, Cai Hợp, Thủ Hợp… Năm 1821, Minh Mạng cho đặt thêm ở các bộ các chức Lang Trung Chủ sự và Tư vụ. Năm 1822, nhà vua bãi bỏ các chức quan Cai Hợp và Thủ Hợp. Những nhân viên trước giữ chức này, nay cho nhập vào ngạch thư lại mới đặt. Năm 1827, ông bãi bỏ các chức Câu Kê và đặt thêm Viên Ngoại Lang. Như vậy, kể từ năm 1827 trở đi, thành phần lãnh đạo và nhân viên các bộ gồm các chức quan sau Thượng Thư, Tham Tri, Thị Lang, Lang Trung, Viện Ngoại Lang, Chủ Sự, Tư Vụ. II. Cải cách chức năng, nhiệm vụ của Lục bộ Để xem xét một cách kĩ nhất về cải cách của vua Minh Mạng thì chúng ta cần xem xét và so sánh với Lục bộ thời vua Lê Thánh Tông. Lục bộ thời vua Minh Mạng Lục bộ thời vua Lê Thánh Tông Bộ lại + Gồm 5 Ty Văn Tuyển, Trung Tự, Phong Điển, Lại Ân, Lại Trực + Chức năng Giúp việc tuyển bổ, thuyên chuyển quan văn, phong tước, tập ấn, phong tặng, giám sát khảo sát niên khoá… + Gồm 2 cơ quan - 1 cơ quan chuyên trách - 1 cơ quan thường trực như cơ quan Lại bộ tư vụ sảnh. Bộ Hộ + Gồm 7 Ty Kinh Trực, Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Thưởng Lộc + Chức năng Cân bằng giá trong việc phát ra và thu vào, điều hoà nguồn của cải nhà nước, phụ trách kho tang lưu thông, đinh tiền thuế kháo, tiền tệ… + Gồm 2 cơ quan chuyên trách Đô tri thanh lại ty, Bản Tịch Thanh Lại Ty và 1 cơ quan thường trực Hộ bộ tư vụ sảnh + Chức năng Quản lý ruộng đất, tài chính, tô thuế, kho tang, hộ khẩu, lương của quan và quân trong cả nước. Bộ Lễ + Gồm Ty Nghi Văn, Ty Nhân Tự, Ty Thừ Ứng, Xứ Lễ Trực + Chức năng Tiếp nhận các tấu sớ, công văn, lễ nghi lễ Gia, lễ Quân, tế tự, phong tặng các thần, cân nhắc hiền tài, ngoại giao + Gồm Nghi Lễ Thành Lại Ty, Lễ Bộ Tư vụ sảnh + Chức năng Phụ trách lễ nghi, tế tư, tiệc tùng, thi cử và học hành, quản lý lễ nghi của quan lại…. Bộ Binh + Gồm Ty Võ Tuyển, Ty Kinh Kỳ, Ty Trực Tỉnh, Ty Khảo Công, Xứ Binh Trực. + Chức năng Bổ nhiệm tuyển dụng các chức võ quan, khảo duyệt khí giới, lương thực để giúp việc chính trị trong nước, tuyển lính…. + Gồm Vũ Khổ Thanh Lại Ty, Qua Vụ Thanh Lại Ty, Binh Bộ Tư Vụ Sảnh. + Chức năng Tuyển lính, huấn luyện quân đội, quân trang vũ khí, trông coi việc trấn giữ biên ải và ứng phó với tình hình khẩn cấp. Bộ Hình + Gồm Ty Kinh Trực Kỳ, Ty Nam Hiến, Ty Bắc Hiến, Xứ Hình Trực. + Chức năng Thảo luận về pháp luật, xét xử tội nặng, phúc thẩm các nghi án, xếp đặt các lao ngục, chế độ tù nhân… + Gồm 4 cơ quan chuyên trách Thanh Hình, Thân Hình, Minh Hình và Thượng Hình Thanh Lại Ty và 1 cơ quan thường trực là Hình Bộ Tư Vụ Sảnh. + Chức năng Thi hành Luật lệnh, hình phạt xét xử, tù ngục.. Bộ Công + Gồm Ty Quy Chế, Ty Danh Thiện, Ty Công Ấn, Xứ Công Trực. + Chức năng Coi giữ thợ thuyền xây dựng thành trì lăng tẩm, đóng tàu thuyền, sửa chữa cung điện, nhà cửa, kho tàng. + Gồm Danh Thừa Thanh Lại Ty, Công Trình Thanh Lại Ty. Không có cơ quan thường trực. + Chức năng Sửa chữa, xây dựng cung điện, đường xá, cầu cống, thành trì, quản lý công xưởng và thợ thuyền trong cả nước. Qua sự so sánh trên, có thể thấy những cải cách của Minh Mạng trong cơ cấu các bộ, chức năng, nhiệm vụ Lục bộ là Không phân thành cơ quan chuyên trách và cơ quan thường trực như triều Lê Thánh Tông mà chia thành nhiều Ty với số lượng lớn. Đó là do dưới triều Minh Mạng đất nước Việt Nam đã phát triển, tiến sâu hơn vào phía Nam, dài và rộng hơn dưới triều vua Lê Thánh Tông và các triều vua khác. Như vậy, công việc của các bộ thời kỳ này cũng nhiều và phức tạp hơn rất nhiều so với các triều đại trước. Bởi vậy, ông đã phân bộ thành nhiều Ty và quy định cho tưng Ty công việc cụ thể, rõ rang và để hạn chế quyền lực tập trung vào tay một số như Thượng Ty hạn chế việc lạm dụng quyền lực và các Ty không bị lấn sang quyền hạn của nhau hay bỏ bê công việc hoặc trong việc xác định ai làm đúng việc và chưa hoàn thành công việc. III. Nhận xét về những cải cách về Lục bộ của vua Minh Mạng Chúng ta đều đánh giá cao cuộc cải cách của vua Minh Mạng, ông đã học tập kinh nghiệm xây dựng Lục bộ dưới thời vua Lê Thánh Tông và triều đại nhà Minh, Thanh trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Đồng thời có sự thay đổi nhằm đề cao vai trò của các bộ phù hợp với yêu cầu của một vùng lãnh thổ rộng lớn và với số dân cư đông đúc, phức tạp. Vì vậy, ở thời kỳ Minh Mạng là lúc triều Nguyễn phát triển mạnh nhất. Những cải cách về Lục bộ của ông được lịch sử đánh giá cao, bộ máy nhà nước như vậy có thể đảm bảo nguyên tắc tập trung quyền lực tối thượng vào tay vua và tăng cường tính thống nhất của một quốc gia với một lãnh thổ từ trước tới nay chưa từng có. Những giá trị tư tưởng của Minh Mạng không những vì cải cách Lục bộ nói riêng và cải cách hành chính nói chung mà còn củng cố nước Việt Nam ổn định và phát triển để có thể đối mặt trước nguy cơ xâm lược của phương Tây và bành trướng lãnh thổ của nước láng giềng Phù Nam. Những cải cách về Lục bộ nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung của Minh Mạng cũng có một số hạn chế nhất định, làm cho đất nước không phát triển được như mong muốn và đủ sức mạnh chống lại các vấn đề bên ngoài, hạn chế đi một phần sức mạnh của nhân dân, chưa tập chung được tinh thần đoàn kết trong nhân dân C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Bằng trí tuệ siêu việt cùng với những nỗ lực không mệt mỏi, vua Minh Mạng đã ghi vào lịch sử Việt Nam dấu ấn về cải cách về hành chính đặc biệt là cải cách Lục bộ. Ông đã kế thừa thành tựu của các triều đại trước để thiết lập một bộ máy nhà nước mới mang tính sáng tạo, trong đó có Lục bộ mà đến nay chúng ta vẫn còn học hỏi Bộ Quốc phòng tương đương với Bộ Binh, Bộ Tài chính về chức năng gần giống Bộ Hộ…. Khi đánh giá về những cải cách của vua Minh Mạng, có ý kiến ngợi khen khâm phục và cũng có ý kiến chê bao khiển trách. Ông đã gần như triệt tiêu mọi tư tưởng cải cách tiến bộ của triều Tây Sơn vua Quang Trung. Nhưng thực sự chúng ta nên có một cái nhìn khái quát lịch sử về cuộc đời và cải cách của Minh Mạng, bởi vậy, nếu xét trên nhiều khía cạnh, Minh Mạng xứng đáng là một vị minh quân hết lòng cho công cuộc xây dựng đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. GIÁO TRÌNH 1. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam – Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2007. 2. Khoa Luật đại học Quốc Gia Hà Nội – Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam – Nxb. Đại học Quốc Gia – 2008 II. SÁCH THAM KHẢO 1. Nguyễn Minh Tường – Cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng – Nxb. Khoa học xã hội - 1994 2. Đại Việt sử ký toàn thư - tập 5, 6, 7, 8 – Nxb. Khoa học xã hội – 1993 3. Minh Mạng chính yếu - tập 1, 2, 3 – Nam Hà ấn quán Sài Gòn – 1975. Trang Chủ » Ẩm Thực Kiến Thức Cần Biết – Sự thật về thần dược phòng the của vua Minh Mạng. Giai thoại kể lại rằng, vua Minh Mạng có sức khỏe phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể “chiều” 5 đến 6 cung tần. Vua Minh Mạng không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược mà còn vang danh hậu thế nhờ có sức khoẻ hơn người. Đời sống phòng the của nhà vua hết sức đều đặn nhưng hằng ngày nhà vua vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Không chỉ có thế, vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Không chỉ có thế, có giai thoại kể lại rằng, vua Minh Mạng có sức khỏe phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể “chiều” 5 đến 6 cung tần. Trong cuốn “Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn” do Nguyễn Viết Kế sưu soạn có viết rằng “Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ Một bà vấn thuốc têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. Mỗi đêm, vua cho thái giám gọi 5 bà vào hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5 canh thì danh sách các bà được chuyển giao cho Tôn Nhơn phủ giữ để tiện theo dõi việc khai hoa nở nhụy của các bà sau này”.Minh Mạng có tới 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa. Với số lượng phi phần và con cái này, vua Minh Mạng cũng là vị vua có nhiều phi tần và đông con nhất trong số 13 vua triều Nguyễn. Trong đời sống thường nhật, có lẽ vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Số phi tần trong cung vua chưa rõ bao nhiêu, chắc phải đến năm , sáu trăm người. Sách Minh Mạng chính yếu chép” Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thuợng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng“Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ tự đâu mà đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặc là trong thâm cung, cung nữ nhiều âm khí uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy “. Điều đó cho thấy đời sống phòng the của nhà Vua lớn như thế nào. Lời đồn đoán rằng để vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên”, các ngự y trong triều đã ngày đêm nghiên cứu, bào chế ra những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng, gọi là “Minh mạng thang”. Đến nay những bài thuốc này đã thất truyền. Những tài liệu và sử còn ghi lại 2 bài thuốc trên có thành phần và cách uống kèm theo như sau “Nhất dạ ngũ giao” – Thành phần Nhục thung dung 12g, táo nhân 8g, xuyên quy 20g, cốt toái bổ 8g, cam cúc hoa 12g, xuyên ngưu tất 8g, nhị hồng sâm 20g, chích hoàng kỳ 8g, sinh địa 12g, thạch hộc 12g, xuyên khung 12g, xuyên tục đoạn 8g, xuyên đỗ trọng 8g, quảng bì 8g, cam kỷ tử 20g, đảng sâm 10g, thục địa 20g, đan sâm 12g, đại táo 10 quả, đường phèn 300g. Cách ngâm đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. Ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vào chậu, trộn đều, đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa, tối mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục. Hai là “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” gồm những thành phần thục địa 40g, đào nhân 20g, sa sâm 20g, bạch truật 12g, vân quy 12g, phòng phong 12g, bạch thược 12g, trần bì 12g, xuyên khung 12g, cam thảo 12g, thục linh 12g, nhục thung dung 12g, tần giao 8g, tục đoạn 8g, mộc qua 8g, kỷ tử 20g, thương truật 8g, độc hoạt 8g, đỗ trọng 8g, đại hồi 4g, nhục quế 4g, cát tâm sâm 20g, cúc hoa 12g, đại táo 10 ngâm 24 vị thuốc trên ngâm với 2,5 lít rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vào keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa, chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với 1,5 lít rượu ngon – một tháng sau dùng tiếp. Căn cứ theo đó các nhà y học hiện đại cũng như y học cổ truyền cho rằng, không phải nhờ 2 bài thuốc này mà hoàng đế Minh Mạng có sức lực phi thường để một đêm có thể ân ái tới 6 cung phi và kết quả sinh được 5 hoàng tử, công chúa đấy chỉ là câu chuyện thêu các nghiên cứu khoa học cũng như tinh dược của các vị thuốc trong 2 bài thuốc nhất dạ ngũ giao và nhất dạ lục giao sinh ngũ tử chỉ là những vị thuốc bổ có tác dụng làm ăn ngon, ngủ yên, mạnh gân cốt, bổ thận tráng dương mà thôi. Những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò chủ trì quyết định. Bởi nếu bài thuốc này mà hữu hiệu đến vậy thì vua Tự Đức, cháu nội của vua Minh Mạng đã sử dụng để không bị bất lực và không có con. Mặc dù vậy, hiện nay, huyền thoại bài thuốc “tăng cường sinh lý, như ý phòng the” của “Minh Mạng thang” luôn có sức hút lớn đối với những người đàn ông muốn tăng cường thể lực trong đời sống vợ chồng mình. Tuy nhiên, để không bị những ảnh hưởng xấu, lời khuyên cho các đấng mày râu là nên tìm hiểu kĩ và hiểu rằng đó chỉ là thang thuốc bổ trợ sức khỏe, tăng cường khí huyết chứ không phải thần dược chốn phòng the. Theo Hội Tiết niệu Thận học – Thừa Thiên Huế Xem nhiều video hay tại kênh youtube KIẾN THỨC CẦN BIẾT Kết nối trang facebook Kiến Thức Cần Biết Xem các bài viết các chuyên mục khác Kiến thức cần biết về Sức KhỏeKiến thức cần biết về Du LịchKiến thức cần biết về Công Nghệ Giới Thiệu Về Tác Giả Kiến Thức Cần Biết Giúp người cũng có nghĩa là ta đang giúp mình, bởi mọi điều tốt đẹp ta trao tặng cho người, đều sẽ đi theo một vòng tròn mà trở lại với ta. Tiếng trống chầu trong Đại Nội Vua Minh Mạng khi đang làm việc hoặc đọc sách phải tuyệt đối im lặng để tập trung tư tưởng. Buổi đó, nhà vua đang đọc sách ở Thái Bình Lâu, trong đêm khuya, bỗng nghe có tiếng trống chầu vang dội. Không biết lý do gì, ông liền sắc hỏi. Thì ra đó là tiếng trống phát ra từ địa điểm các Hoàng Tử Miên Thẩm, Miên trinh đang ở. Các Hoàng Tử này họp nhau lại tổ chức diễn tuồng trong đêm mà không xin phép trước. Sáng hôm sau, Phủ Tôn Nhơn dâng phiến, Minh Mạng phê– Khởi cổ ở trong thành mà không xin phép. Miên Thẩm phải phạt bổng hai năm, và phải đóng cửa 3 tháng luôn, không được dự triều hạ. Từ ngày đó, Miên Thẩm tức Tùng Thiện Vương sau này không dám diễn tuồng nữa. Các bản tuồng sáng tác đều đem ra đốt hết. May mắn cho Miên Trinh, dù có tham dự trong tay trống chầu, nhưng khỏi bị phạt, vì trưởng ban tổ chức là Miên Thẩm. Giấc mơ hoàng tử Đảm Khoa Kỷ Mão năm Gia Long thứ 18 1819, Minh Mạng, lúc ấy còn là Đông Cung Thái Tử, ra hồ Tĩnh Tâm chơi, tinh thần mệt mỏi, Thái Tử bèn nằm trên võng thiu thiu ngủ. Bỗng một người học trò, tự xưng là học giả Lam Sơn đến hầu. Thái Tử thấy người học trò, đầu đội mũ cỏ, tay cầm câi gậy nhọn xiên qua bên mặt trời; tự nhiên mặt trời đùn đùn lên một đám mây đen sì, rồi tối sằm lại. Người học trò giơ gậy lên vẫy thì đám mây đen tan ngay, trời sáng bừng lên. Thái Tử về cung đưa chuyện nằm mộng hỏi thị thần. Quan Thái bộc đoán “Người học giả đầu đội nón cỏ là học trò, tên y có chữ giả, thêm thảo dầu mũ cỏ, là chữ Trứ. Chữ Trứ có nét phẩy cái sát qua chữ nhật, tức là cái gậy xiên qua mặt trời. Từ Lam Sơn lại, người ấy tất quê ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Đám mây đen đùn lên ở mặt trời là điểm sau này biên thùy có lọan. Người ấy cầm gậy vẩy, mà đám mây đen tan, là điềm người ấy sau này sẻ dẹp tan giặc. Vậy xin Điện Hạ nghiệm xem khoa này có ai tên là Trứ ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh thi đỗ không? Thái Tử nghe lời. Đến khi quan trường chấm xong đệ danh sách vào Bộ Duyệt, thấy tên Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ Khoa, Thái Tử Đảm mừng là ứng vào điềm mộng, quốc gia để tuyển được nhân tài chân chính. Thế là khoa ấy các quan chấm trường đều được thuởng một cấp. -Sưu tầm

chuyen phong the cua vua minh mang